%@LANGUAGE="JAVASCRIPT" CODEPAGE="CP_ACP"%>
2
Thời gian chờ đợi ở đây tôi vẫn là kẻ sống bất hợp pháp, nhưng nhờ trong nhà có hai anh rất quen với chính quyền xã, ấp nên suốt thời gian ở đó tôi không gặp một rắc rối nào và cũng chẳng ai thèm dòm ngó đến tôi. Thỉnh thoảng tôi còn liều lĩnh đi lên tới Dốc Mơ, Gia Kiệm để thăm bà con của tôi, nhưng không lần nào bị hỏi giấy.
Cuối tháng ba 1981 chúng tôi được thông báo xuống Bà Rịa để lên đường. Ban đầu chúng tôi được tá túc tại một nhà dòng của mấy bà sơ. Ở đó vài ngày chuyến đi vẫn chưa thể thực hiện được, anh em chúng tôi lại phải đến tá tục tại một gia đình, ông chủ nhà cũng là một trong những người tổ chức. Anh em tôi và hai đứa nhỏ được ở trong một căn phòng nhỏ kín đáo, ban ngày chúng tôi không dám ra khỏi cửa. Muốn tắm rửa phải chờ tối hẳn mới dám ra, mặc dù giếng nước ngay cạnh nhà.
Vài ngày sau căn phòng nhỏ của chúng tôi lại đón tiếp thêm một cô gái khoảng đôi mươi, không biết cô từ đâu đến. Chúng tôi cứ nghĩ là khách được « ém » như chúng tôi. Mấy ngày sau cô trở về vì chuyến đi vẫn chưa khởi hành được. Một tuần sau đó cô lại tới nữa và lần này có thêm một đứa em trai. Sau này chúng tôi biết hai chị em cô là cháu của chủ nhà và cô là người tình của một thanh niên cũng ở trong nhóm tổ chức. Nếu tôi không lầm, thanh niên này đem hai chị em cô đi theo như một « món hàng lậu ».
Thời gian chờ đợi ở đây thỉnh thoảng ông chủ ghe đến cùng bàn bạc những chi tiết với ông chủ nhà ngay trong phòng của chúng tôi. Cứ như kế hoạch của ban tổ chức đưa ra thì thật là tuyệt, chẳng còn kế hoạch nào chu đáo hơn. Thí dụ vấn đề đưa khách lên ghe được bố trí như sau : Khách sẽ được xếp hàng và lần lượt lên ghe, con nít lên trước, đến đàn bà, rồi đàn ông còn thanh niên lên sau cùng. Trên ghe sẽ có một số người cầm cây để giữ trật tự và kiểm soát « những món hàng lậu » không cho lên ghe, như thế khách hàng sẽ chẳng ai bị bỏ lại. Nghe như thế tôi cảm thấy an tâm. Thế nhưng, thực tế ra sao tôi sẽ nói sau.
Chiều ngày 07 tháng 4, chủ ghe đến thông báo cho chúng tôi là khuya nay sẽ khởi hành, tối nay chúng tôi phải đến tập trung tại một nhà chứa khác. Nhưng rồi chúng tôi hiểu lầm là tối sẽ có người đến dẫn đi. Chúng tôi nghĩ rằng anh chàng thanh niên kia đến dẫn người yêu (là cô gái ở chung phòng) đi và dẫn luôn cả chúng tôi theo. Thế là chúng tôi cứ thấp thỏm, hồi hộp chờ đợi. Tới nửa khuya cũng chưa thấy ai tới đón, chó sủa ầm ỹ từ xa vọng lại. Anh em tôi như thể đang ngồi trên lửa, càng nghe chó sủa chúng tôi càng thấy thất vọng và bối rối, lo lắng : kiểu này chắc mình bị bỏ lại rồi.
Cả đêm đó anh em chúng tôi chẳng ai chợp mắt, tới khoảng bốn năm giờ sáng nghe có tiếng nói chuyện ngoài sân trước nhà, anh tôi ra xem thì nhận ra là chủ ghe và chủ nhà. Hai người thấy anh tôi cũng ngạc nhiên nói : « Trời ơi, sao giờ này các anh còn ở đây. Cũng may cho các anh, chúng tôi đang chuyển dầu ra ghe thì gặp công an huyện đi tuần nên chúng tôi phải rút về ». Thật hú hồn, thế là chúng tôi còn may mắn chưa bị bỏ lại. Nếu họ không gặp trở ngại đó thì chúng tôi chắc chắn đã « ở lại mạnh giỏi » rồi.
Chuyến này trong gia đình và họ hàng chúng tôi gồm tất cả 15 người : gia đình anh chị cả, gia đình anh chị kế (mà tôi đi theo anh từ lúc đầu), tôi và ông bác. Chỉ có anh em tôi tá túc tại đây từ hai tuần nay, còn những người khác đến sau và tập trung ở nhà khác.
Cũng ngày hôm đó chúng tôi được thông báo là khuya nay sẽ « đánh » tiếp. Vừa chập tối chúng tôi kéo nhau đến nhà ém khách được chỉ định. Khi chúng tôi đến người ta đã ngồi chật ních nhà, mọi người đều im lặng chỉ thỉnh thoảng có vài tiếng xì xèo. Gia đình mấy anh chị tôi cũng có mặt đầy đủ từ mấy hôm trước. Khoảng nửa đêm có lẽ khách đã đầy đủ, chúng tôi được phát mỗi người một chiếc vòng có sợi thun để đeo vào cổ tay. Chiếc vòng này như một biên nhận chứng minh khách hàng đã trả tiền. Khi lên ghe nếu không có chiếc vòng này kể như là một món hàng lậu hay nói theo danh từ của tự điển vượt biên là « căn me ». Và nếu món hàng lậu này bị phát giác thì sẽ bị đẩy xuống khỏi ghe. Nhưng rồi có cẩn thận cách mấy những món hàng lậu vô chủ này cũng vẫn được bốc lên hay tự động nhảy lên các ghe vượt biên mà những người tổ chức không thể kiểm soát được.
Khoảng 2 giờ sáng chúng tôi được lệnh tiến ra « bãi đáp ». Mọi người hối hả đi như chạy vì sợ không kịp sẽ bị bỏ lại. Tôi nhận cõng đứa cháu 5 tuổi cho anh chị tôi. Hành trang của tôi chỉ có một cái túi nhỏ gồm vài bộ quần áo, một hộp sữa và vài thứ lặt vặt. Tôi đeo cái túi trước ngực, cõng thằng cháu chạy theo đoàn người. Vì trời tối lại là vùng đất lạ, có lúc tôi chạy lạc cả vào vườn của người ta, nhưng may tôi cũng tìm lối ra được và nhập lại đoàn người đang đi vội vã. Tới một cánh đồng chúng tôi được lệnh ngồi chờ vì ghe chưa tới. Chúng tôi ngồi từng nhóm im lặng và hồi hộp chờ đợi.
Mọi người ngồi đó đã lâu mà vẫn chưa được tin ghe tới. Những tiếng xì xèo lo lắng bắt đầu nổi lên, nhưng ai nấy vẫn kiên nhẫn ngồi chờ. Chuông nhà thờ đổ hồi thứ nhất, có lẽ khoảng 4 giờ sáng, vẫn chưa có động tĩnh gì. Chắc chắn trong lòng mọi người đang lo lắng tột độ. Có tiếng buồn rầu than thở : giờ này mà ghe chưa tới, trời sáng rồi làm sao đi. Tiếp theo đó, nhiều tiếng than van đầy lo lắng khác phụ hoạ theo. Chuông nhà thờ đổ hồi thứ hai, cũng chưa có tin ghe tới, mọi người vẫn nhấp nhổm chờ đợi với cõi lòng hoang mang lo lắng.
Trong lòng tôi không còn là sự lo lắng, hồi hộp mà đã trở thành lo sợ. Tôi lo sợ vì khoảng thời gian từ đó tới bình minh rất ngắn và sẽ qua đi rất mau, nếu rạng đông mà chưa lên ghe được chắc chắn là chuyến đi thất bại, và rồi mọi người sẽ phải giải tán trước khi trời sáng để khỏi bị lộ và bị bắt. Tôi cứ nghĩ nếu phải trở về và nếu không may bị bắt thì số phận tôi sẽ ra sao. Càng nghĩ tôi càng lo sợ, hồi hộp nhưng cũng đành ngồi chờ như mọi người chứ biết làm gì hơn.
Theo chương trình của nhóm tổ chức, ghe sẽ khởi hành lúc 4 giờ sáng và sẽ có một số ghe đánh cá tháp tùng theo, làm sao khoảng 6 giờ sáng sẽ ra tới cửa biển. Như thế trước 4 giờ sáng vấn đề đưa khách lên ghe phải hoàn tất. Vậy mà tới giờ này vẫn chưa có dấu hiệu gì khả quan. Như vậy bước đầu tiên của kế hoạch đã bị trật đường rầy nghiêm trọng.
Một lúc sau, nghe tiếng thông báo : « ghe tới rồi, bà con nhanh chân kẻo trời sắp sáng rồi ». Mọi người như bừng tỉnh sau một cơn mê dài. Đoàn người hối hả chạy ra hướng bờ đê. Ai nấy đều có một ý nghĩ, một nỗi lo sợ giống nhau, đó là sợ bị bỏ lại, thành thử chẳng cần hối thúc người ta cũng cố gắng chạy thục mạng để mong sao bước chân được lên ghe thì mới chắc ăn. Trong số đoàn người này dĩ nhiên có cả tôi. Cho tới lúc này chân tôi vẫn còn mang đôi dép cao su bằng vỏ xe mà người ta thường gọi bằng một danh từ mỹ miều là dép « râu » hay dép «Bình Trị Thiên ». Nhưng để theo kịp người ta tôi phải cởi dép ra xách trên tay và cõng thằng cháu chạy như bay với mọi người.
Ra tới bờ đê tôi thực sự hoảng hồn trước cảnh hỗn loạn trên đê. Tất cả những gì diễn ra trước mắt tôi hoàn toàn trái ngược với những điều tôi tưởng tượng trong đầu. Tôi thật không thể tưởng tượng được trước mặt tôi là một cuộc chạy trốn lén lút. Người thì đông nhốn nháo như một cuộc biểu tình. Tiếng la hét, tiếng gào nhau, tiếng quát tháo ầm ỹ hơn cả một cuộc chạy loạn trong thời chiến.
Tôi nghĩ cảnh tượng ở đây chẳng khác nào cuộc tháo chạy từ Đà Nẵng hoặc từ miền Trung vào tháng ba, tháng tư 1975. Nhưng hồi đó cuộc tháo chạy được diễn ra công khai ban ngày và chẳng bị ai cấm cản. Sự hỗn loạn hồi đó có chăng chỉ gây khó khăn cho những người có trách nhiệm giữ an ninh trật tự. Sự hỗn loạn ở đây chẳng khác nào như một bản cáo trạng tự tố cáo hành động phạm pháp của mình với nhà chức trách. Những người trốn chạy lại ung dung báo cho người đang truy lùng biết : « Thưa ông tôi ở bụi này ».
Người ta bảo « ồn ào như cái chợ ». Sự ồn ào của một cái chợ lớn cũng chưa chắc bằng một phần nhỏ ở đây. Sự tin tưởng của tôi vào cách tổ chức chu đáo như nói ở trên hoàn toàn sụp đổ. Muốn giữ được trật tự ở đây theo như kế hoạch của ban tổ chức, tôi nghĩ phải có một tiểu đội có súng thì may ra mới thực hiện được. Bước thứ hai của kế hoạch (đưa người lên ghe theo thứ tự) có thể nói là rất quan trọng cũng tan tành theo mây khói.
Chiếc ghe ủi mũi sát vào bờ. Ai cũng sợ bị bỏ lại thành thử mạnh ai nấy nhảy xuống bám vào thành ghe để leo lên. Thấy không thể chần chừ được, tôi cõng thằng cháu nhảy xuống. Nhưng tôi không được may mắn vì khi tôi nhảy xuống mạn ghe bên này thì bên kia có quá nhiều người cũng đang bám vào thành ghe để leo lên, thành thử chiếc ghe nghiêng hẳn về bên đó, và thành ghe phía bên tôi cao ngỏng lên. Tôi không thể nào với tay lên được, phần vì thành ghe cao, phần vì thằng cháu sợ quá cứ ghì chặt lấy cổ tôi và khóc.
Tôi vội vàng cõng nó lội sang phía bên kia. Chỉ trong nháy mắt số người bu quanh chiếc ghe đã như đàn kiến bu quanh xác con cào cào. Thằng cháu trên lưng càng lúc càng sợ và xiết cổ tôi chặt hơn khiến tôi có lúc muốn ngộp thở. Mặc dù khó khăn tôi cũng chen vào được tới sát thành ghe và nhìn thấy anh tôi đã đưa được hai đứa con lên ghe và anh còn đang đu đưa ở mạn ghe. Tôi cố gắng gọi to nhưng anh không nghe được. Tôi chưa kịp bám tay vào thành ghe thì chiếc ghe từ từ rút ra khỏi bờ đê và chạy tuốt ra xa. Tôi thất vọng và nghĩ thầm : Thôi rồi, vậy là số tôi phải ở lại mạnh giỏi, không biết tương lai sẽ ra sao.
Tôi buồn rầu cõng cháu trở lên bờ đê. Số người chưa lên được ghe còn rất nhiều đứng lố nhố bàn tán xôn xao. Mặt người nào trông cũng rất thảm vì thất vọng và bực tức. Những tiếng chửi thề dĩ nhiên không thể tránh được trong hoàn cảnh này. Khi bình tĩnh lại tôi nghĩ chiếc ghe rút ra ngoài là phải, nếu không có thể sẽ bị lật ngay tại bến vì số người quá đông bám vào một bên. Những người có nhiệm vụ giữ trật tự không thể làm gì được. Dù có cầm cây đánh vào tay, lúc đó họ chẳng còn cảm giác đau đớn là gì, họ cũng chẳng biết sợ, và thà « chịu đấm ăn xôi » miễn sao leo lên được ghe là tốt.
Kiểm điểm lại những người trong gia đình chúng tôi, chỉ có ba cha con anh tôi lên được ghe, còn lại tất cả 12 người kể cả tôi vẫn còn lại trên bờ. Chiếc ghe chạy ra ngoài một khoảng cách khá xa, nhưng không chạy luôn mà dừng lại ở đó rất lâu. Những người còn lại trên bờ mới khám phá ra là ông chủ ghe cũng chưa lên ghe được, có lẽ như vậy mà chiếc ghe chưa chạy luôn. Ông bác tôi nói với chúng tôi : Chủ ghe chưa lên thì ghe không dám đi đâu, thể nào nó cũng quay lại, tụi bay phải bám sát chủ ghe nếu ông ta lên được thì mình cũng lên được. Lời nói đó như xác nhận một định luật của trò chơi : vượt biên. Một định luật không được soạn thảo, không được công bố, nhưng lại được thi hành rất phổ biến trong phong trào vượt biên.
Thực tế, tôi chẳng biết mặt mũi của ông chủ ghe như thế nào, khi những người còn lại kéo nhau xuống mảnh đất dưới chân đê, tôi cũng dắt (lúc này không cần cõng nữa) thằng cháu đi theo. Những người trong gia đình chúng tôi đứng chung một chỗ. Một thời gian khá lâu chiếc ghe quay đầu chạy trở vào. Mọi người thấy ghe trở vào ngọn lửa hy vọng trong lòng bừng cháy lên. Nhưng chiếc ghe không chạy sát vào bờ mà dừng lại ở một khoảng cách khá xa bờ. Những người có con nhỏ chỉ đứng nhìn với con mắt thèm thuồng, thất vọng, vì không có cách nào lên được.
Những người độc thân khoẻ mạnh bắt đầu nhảy xuống nước bơi ra để leo lên ghe. Lúc đó tôi thực sự lưỡng lự không biết quyết định thế nào. Nếu cõng cháu theo thì quả thực rất khó khăn, mà để nó lại đi một mình tôi không đành vì lương tâm không yên ổn, nếu ở lại thì chắc chắn gặp khó khăn cho bản thân và còn phiền đến nhiều người khác. Chị tôi đã nhìn ra điều đó nên đã thúc giục tôi : Chú cứ để cháu lại cho chị rồi lên ghe trước đi.
Tôi vẫn do dự và thật bồi hồi nhìn những người khác bì bõm lội ra ghe. Đứa cháu vẫn đứng bên cạnh và tay tôi vẫn còn nắm chặt tay nó. Lúc này nó không còn khóc như trước nhưng chắc vẫn chưa hết sợ. Thấy tôi vẫn còn chần chừ chưa chịu buông tay thằng cháu, một tay chị bồng thằng con út, tay kia chị nắm lấy tay thằng anh mà tôi nhận đem theo rồi hối tôi : Để cháu lại cho chị, chú cứ ra ghe trước đi, chú mà ở lại thì kẹt lắm.
Điều này chị đã nói rất đúng cho hoàn cảnh tôi lúc đó. Tôi suy nghĩ thật nhanh : nếu ở lại tôi có còn cơ hội nữa hay không ? Nghĩ thế tôi quyết định nghe theo lời chị tôi, mặc dù trong lòng tôi thật ray rứt. Tôi trao đứa cháu lại cho chị tôi và chỉ nói được mấy lời vội vã : Thôi, chị giữ cháu để em ra ghe trước rồi tính sau.
Tôi nói thế chỉ như một hy vọng mong manh mà người ta thường nói để che dấu một sự thực phũ phàng, vì cho dù tôi lên được ghe chắc chắn cũng chẳng tính toán được gì trong tình cảnh đó. Những người có con nhỏ như chị tôi lúc đó chỉ biết đứng nhìn chiếc ghe ngoài xa một cách tuyệt vọng.
Buông đứa cháu ra, tôi nhảy ngay xuống nước bơi ra phía chiếc ghe. Hành trang của tôi chỉ vỏn vẹn hai bộ quần áo và vài vật dụng tầm thường được đựng trong một cái sắc nhỏ tôi vẫn đeo trước ngực. Đôi dép « râu » mà tôi vẫn mang khi ra tới bờ đê, tôi đã trả nó lại cho quê hương lúc nhảy xuống để lên ghe lần đầu.
Cuối cùng, tuy khó khăn nhưng tôi cũng đã leo lên được « chiếc ghe định mệnh ». Vừa leo lên được ghe, tôi liền bị kiểm tra và rất may giấy biên nhận đã đóng tiền (chiếc vòng đeo ở cổ tay) của tôi vẫn còn. Sau đó tôi bị đẩy ngay xuống khoang ghe ở phía trước. Kể từ lúc đó tôi không còn biết những gì xẩy ra bên ngoài chiếc ghe.
Chui xuống hầm tôi nhìn thấy ngay ba cha con anh tôi đang ngồi đó. Thấy tôi, anh lo lắng hỏi dồn : những người kia đâu ? Tôi trả lời còn ở trên bờ hết, có ai lên được sau tôi không tôi hoàn toàn không biết. Anh tôi tỏ vẻ thất vọng và buồn thấy rõ. Dù lên được ghe nhưng trong lòng tôi cũng chẳng vui, vì biết chắc những anh chị em khác không thể đi chung chuyến này và nhất là tôi đã không làm tròn trách nhiệm đã được trao.
Khoang thuyền chật ních người, tôi không thể ước lượng được bao nhiêu, chỉ biết tôi cố gắng chen được một chỗ nhưng chỉ có thể ngồi bó gối vì không có chỗ để duỗi thẳng chân ra. Tới đây kể như mục đích đầu tôi đã đạt được, nhưng còn những gìờ phút kế tiếp và những ngày kế tiếp chắc chắn còn cam go hơn nhiều, chưa biết số phận sẽ ra sao, không ai biết được.
Tôi chui xuống đây được vài phút thì
nghe tiếng máy ghe rú lên và chiếc ghe bắt đầu chuyển mình. Tôi biết ghe đã
nhổ neo và đang từ từ chạy ra biển. Lúc đó những người ngồi dưới khoang thuyền
như « ếch ngồi đáy giếng » chẳng biết sự gì bên ngoài. Miệng hầm được phủ
một tấm bạt dầy và trên boong cũng có nhiều người nằm la liệt.