FRANCIS
P. FRIEDL
********
(Extraordinary lives)
34 linh mục kể chuyện đời mình
8. ANDREW J. UMBERG COLUMBUS, OHIO
Cha
Andy Umberg là một Linh mục tương đối " mới" Ngày sinh năm 1963
tại Cincinnati. Thụ phong Linh mục năm 1991, phục vụ giáo phận Cineinnati.
Ngài là Linh mục phụ tá giáo xứ thánh Đaminh ba năm, rồi được sai làm Viện
trưởng Giáo hoàng học viện Josephinum, Ohio.
Cha Umberg không phải là một trong những người lập tức theo Đức Kitô sau khi
nghe tiếng gọi Linh mục. Ngài quan sát cửa hàng ơn gọi một thời gian. Ngài
là một người trẻ biết phân tích giá trị, xác tín đời sống độc thân và coi
đó là một uỷ nhiệm.
Tôi thuộc loại Linh mục trẻ mà được uỷ nhiệm chức lớn. Tôi mơ ước những điều
mà thế hệ trước tô từng mơ ước. Thể hiện mơ ước, tôi bắt đầu vào vườn trẻ
năm 1968. Phong trào Hippi tiếp tục phát triển và lý tưởng của Công đồng Vatican
II được đâm rể. Có lộn xộn và phản chứng. Tuy nhiên việc giáo dục đức tin
hồi thơ ấu bởi cha mẹ và những lớp giáo lý trong trường rất là vững chắc.
Từ năm 1970 - 1977 việc huấn luyện tôn giáo ở nhà trường dễ bị tan vỡ. Quả
vậy, giáo lý dù là điều rất nhỏ đã được dạy theo hình thức. Sách Giáo lý quả
là một đại hoạ. Người ta đề cập nhiều về tình yêu tha nhân, mà ít về tình
yêu Thiên Chúa. Ngay thời đó, tôi cảm tháy có gì sai, có gì thiếu sót trong
vấn đề luân lý xã hội. Đã có nhiều cái chẳng có tin lý. Tuy nhiên vẫn có một
số giảng viên can đảm và xác tín về chương trình giáo lý. Tôi muốn biết hơn
về Chúa Giêsu. Dường như quan điểm về thế giới của tôi khác và những gì tôi
dang học trường, có thể vì cha tôi và vì lối sống của người. Tôi có cuộc sống
nghiêm túc và bởi vậy bị những người không muốn sống như thế cho là lạc lõn.
Đây là thời đại vàng son của TV và tôi bị ảnh hưởng, đặc biệt là những sản
phẩm của Norman Lear.
Những lý tưởng từ đó được đưa vào đầu óc tôi và bắt đầu ảnh hưởng đén đức
tin của tôi. Tôi có thái độ chống lại quyền lực, thái độ đó ảnh hưởng đến
cả việc sống đạo. Gia đình tôi đi lễ mỗi Chúa Nhật và Lễ Trọng. Không có ai
trong gia đình đặt vấn đề này, tôi lại có. Vì một vài lý do và vì sự pảhn
loạn của tôi, tôi đã không đi lễ. Tôi hiểu đi lễ là rất quan trọng, dầu tôi
không phải là câu giúp lễ ( có lẽ vì tôi sống xa nhà xứ và vì tôi ham mê thể
thao nên ít còn thời gian cho những vấn đề khác ).
Năm đầu ở trường Công giáo cấp III tôi lại đi lễ hàng ngày, một trong những
giáo sư của tôi là một Cha Dòng Tên rất đạo đức. Ngài khuyến khích lòng dùng
mộ Thánh Tâm và phê bình một vài xu hướng thần học hiện đại. Năm thứ hai tôi
coi là việc buồn tẻ và không siêng đi lễ nữa. Tôi bắt đầu nghĩ đến vấn đè
hôn nhân. Trên TV nói nhiều về tình dục và tôi nghĩ giải pháp thích đáng duy
nhất là phải có kinh nghiệm mới dám đi tới hôn nhân. Tôi theo giải pháp này.
Năm thứ ba tôi làm việc ở quán bán thức ăn ăn liền. một tuần 35 giờ và ít
học hành. Một trong những anh em của tôi cũng theo tôi. Chúng tôi xen cha
tôi năm thứ IV học trường công. Thật ngạc nhiên cha tôi đã bằng lòng. Trường
gần sân nhà của chúng tôi, thay vì phải mất 40 phút xe buýt mới đến trường
Công giáo. Một trong những lý do thay trường là tôi chán việc dạy giáo lý.
Các giảng viên chế nhạo tôn giáo, các sơ và đôi khi các Linh mục. Rồi tôi
cũng thấy ở trường công cũng chẳng tốt hơn, các học sinh rất là nông cạn.
Đây là thời kỳ hoàn toàn vật chất, thời mốt quần " din Jordache".
Các bạn lớp ngĩ tôi là thằng phản loạn chống lại lối sống của họ. Tuy nhiên
tôi đã uống bia đến các dạ hội.
Tôi cũng có những khó khăn riêng. Tôi trở nên chống đối. Tôi thích văn chương,
văn chương thời đó có dấu ấn mạnh thường đuợc viết bởi các nhà văn vô thần
của thế kỷ 20. Tôi không thể hiểu được tại sao những người Công giáo tốt lại
viết về vật chất nặng nè như thế. Kết cục tôi thấy không có mối giây thông
giao giữa đời sống trí thức và đức tin. Môn tôi thích học là ngôn ngữ. Tôi
nghĩ nó phù hợp với cái nghề tôi dang dự định trong đầu, tôi muốn làm đầu
bếp. Chương trình học ở truowngf công còn hơn một năm nữa, tôi rời trường
và vào học trường nấu ăn.
Tại sao tôi lại theo đuổi nghề này ? Tôi thích nấu ăn và muốn ăn ngon. Tôi
muốn trở thành đầu bếp, có nhà hàng, lập gia đình khi tôi có khả năng cung
cấp và có nhiều con, Lúc ấy tôi không còn ý định làm Linh mục, mặc dầu lý
tuởng đã ám ảnh tôi ngay từ nhỏ. Tôi không muốn sống độc thân và tôi cùng
chẳng muốn mất giờ trong việc học hành.
Sau khi tốt nghiệp, tôi ghi tên vào trường kỹ thuật - không phải là một trường
nấu ăn danh tiếng - chỉ là một trường thường. Sáng đầu tiên, lãie trên xa
lộ, tôi nghĩ. " Đây là bắt đầu nghề của tôi. Trong hai năm nữâ tôi sẽ
là một đầu bếp, bốn năm tôi có nhà hàng rồi lập gia đình. Giáo hội không muốn
tôi làm Linh mục, như vậy tôi sẽ được bình an"
Tôi lại khám phá sự nông cạn của các sinh viên. Luân lý của họ đã bỏ những
gì đáng ước mơ. Họ không bao giờ nói chuyện một cách nghiêm chỉnh. Bỗng nhiên
ước mơ làm đầu bếp mất hấp lực. Tôi quan tâm đến văn chương Âu Châu, nhạc
Đức và những món ăn sáng tạo. Nhưng tôi đã không tìm được thú vị trong trường
và trong những nhà hàng tôi thực tập. Cũng chẳng còn thú vị sáng tạo, chỉ
còn sản xuất và kiếm tiền.
Tôi thấy nấu ăn chẳng còn thích hợp với tôi nữa. Tôi phải trở lại học và lấy
bằng cấp. Nhưng để làm gì ? Ý tưởng Linh mục lại đến với tôi. Tôi lần chuỗi
3 ngày và làm tuần 9 ngày cầu nguyện thánh Giacôbê để tìm ra câu đáp. Rồi
cha tôi bị bệnh tim. Một cú xốc nhắc nhở tôi : thời giờ rất vắn vỏi. Sự vắn
vỏi của cuộc sống trên trái đất định hình nhiều tới những quyết định của tôi.
Kết cục đó là một trong những điều dẫn tôi tới chức Linh mục. Tôi tiếp tục
suy nghĩ rằng nếu tôi chỉ có 60, 70 năm sống, tôi nên sống tốt, vì tôi chẳng
còn cơ hội nào khác. Tôi còn muốn lậo gia đình, nhưng hình như Linh mục là
điều Chúa muốn gọi tôi đi tới. Tôi quyết định : tôi không thể từ chối như
trước nữa. Nếu quả thật tôi tin Thiên Chúa và Ngài tiếp tục gõ đầu tôi thì
làm sao tôi có thể quay lưng lại với lời mời gọi của Ngài ? Ít ra tôi phải
thử.
Từ khi tôi không còn ý tưởng chạy trốn, thì lại có một nỗi khó khăn là lý
tưởng Linh mục bị rao bán, ngày cả bởi một vài người trong hàng giáo sĩ. Nhiều
kiễu mẫu khác nhau của Giáo hội được trình bày, trong số đó có vài kiẻu mẫu
cho là chức Linh mục đang giẫy chết. Chức Linh mục không và sẽ không bao giờ
giẫy chết. chức Linh mục chỉ đổi thay. Chúa Thánh Thần đẫ nói với chúng ta
ở đâu có sự đổi thay thì sự đổi thay sẽ hướng dẫn chúng ta. Trẻ con quan sát
người lớn và tìm xem ai đang sống hạnh phúc. Khi chúng thấy có một số người
sống rất hạnh phúc với ơn gọi đặc biệt của mình, thì chúng sẽ gắn bó với ơn
gọi đó. Tôi muốn chỉ cho chúng khía cạnh tích cực cửa chức Linh mục. Là cha
mẹ thì phải cố gắng tạo niềm vui cho đứa con đang chán nản của mình. Tôi phục
vụ như là một cha mẹ đạo đức để giúp những người trẻ. Trẻ con cho tôi một
đôi giầy trượt tuyết và tôi có cơ hội để sử dụng. Tôi cố gắng lưu tâm đến
âm nhạc mà chúng thích, chì cho chúng là tôi thích thú những thú vui hợp pháp
của chúng.
Thiên Chúa đã chúc phúc tôi, trao cho tôi nhiều việc quan trọng và nhiều bạn
bè tuyệt vời. Trong công việc đầu tiên của tôi, tôi được Cha sở và dân chúng
đối xử tử tế và khen ngợi, vì thế tôi không còn cô đơn. Tất cả mọi người trong
xóm đều có vợ, tôi cảm thấy thiếu một cái gì và bắt đầu cảm thấy buồn buồn.
Tôi quyết định đúng không ? Rồi tôi tìm sự nâng dỡ của bạn bè, đặc biệt nơi
một vài Linh mục. Các ngài giúp tôi lối thoát. Các Ngài nói : đừng phủ nhận
khổ đau và cô đơn và cũng đừng bỏ quan tâm đén tình cảm của mình. Tôi miệt
mài trong cầu nguyện và đọc Sách Thánh. Những khoảnh khắc cô đơn đã đến, rồi
đã biến mất. Lúc đầu chúng làm tôi quay cuồng, nhưng mỗi lần tôi đều nghĩ
ra một chiến thuật tốt hơn để kiềm chế, nên bây giờ tôi làm chủ được.
Độc thân, sống chân thực đời độc thân, là món quà Thiên Chúa ban cho Linh
mục và cho thế giới. Đó là một tuyên xưng với xã hội hưỏng thụ rằng : một
người có thể mạnh khoẻ và quân bình trong kiềm chế tôi tin lời hứa độc thân
làm cho dân chúng nhìn đúng đắn về chức Linh mục, giúp cho họ bắt chước sống
những lời hứa của họ trong đời. Khó thật nhưng mọi sự dáng giá đều khó. Độc
thân Linh mục gợi hứng cho những người có gia đình trung thành với nhau và
cho người còn độc thân giữ lời lời mình hứa Lời hứa độc thân nói lên rằng
: chúng ta liều tính đặt hét tin tưởng vào lý tưởng được ăn cá ngã về không.
Nó nói lên rằng chúng ta là Linh mục mà có như tiếng tâm, danh dự, trọng kính.
Nó biểu trưng về những gì chúng ta tin vào đời sau .
Néu độc thân được tuỳ ý chọn và Linh mục đã chọn, thì dân chúng có thể nói
" Tôi đoán Cha đúng là không muốn lập gia đình". Dân chúng không
còn tin Linh mục chấp nhận độc thân vì lợi ích thiêng liêng. Nếu Giáo hội
thay đổi luật, độc thân được coi như một món đồ trả giá, và đòi hỏi Linh mục
một giá quá đất, ngay cả là vì Nước Trời. Sự chọn lựa của tôi nói lên sứ vụ
của tôi không phải là việc làm thêm, trái lại sứ vụ hoàn toàn vì lời thề hứa.
Khi tôi bị cám dỗ lười biếng, phung phí thời giờ, tôi tự bảo tôi " Anh
đã bỏ dự tính lập gia đình, sao anh còn ngồi chơi ?" Độc thân giúp tôi
thi hành nghiêm chỉnh sứ vụ và giúp tôi nhớ rằng sứ vụ của tôi là rao giảng
Tin Mừng. Mỗi Linh mục ở trong địa vị đều đóng góp cho xã hội. Theo nhận xét
của tôi, một trong những món quà ý nghĩa nhất là sự độc thân của tôi. Đó là
sự đóng góp hàng đầu. Vì nó biểu trưng cho sự hy sinh, lòng nhiệt thành và
sự đoan quyết. Nó sẽ khích lệ sự đoan quyết của dân chúng đối với hon nhân,
đức tin và với bạn bè.