FRANCIS P. FRIEDL

REX REYNOLDS

********

NHỮNG CUỘC ĐỜI NGOẠI HẠNG

(Extraordinary lives)

34 linh mục kể chuyện đời mình


5. VILLIAMS TRINEKENS CALARY, ALBERTA, CANADA

Cha Bill Trinekens sinh tại Hoà Lan năm 1932m chịu chứ năm 1961, là Lih mục Giáo phận Calary, Canada. Ngài là Cha sở xứ Thánh Luca ở Calary, Alberta, Canada.
Thuở thơ ấu ở Hoà Lan, Cha và gia đình Cha đã kinh qua những gì mà nhưng người Mỹ không cảm nghiệm được một nước bị chiếm đón, Đức quốc xã đã xâm chếm đất nước của Cha. Việc làm, thức ân, trường học đều thiếu thốn. Sau một thời gian dài vật lộn để giúp đỡ gia đình sau cái chết của người cha và gắng công hơn nữa để có được nền học vấn ăn bản. Trinekens di cư sang Canada và học làm Linh mục. Mặc dầu những thử thách đầu đời đã hình thành Cha nên người rồi, chẳng cần chức Linh mục, song Cha vẫn khiêm nhưòng bảo sư trưởng thành đó là để cho chức Linh mục mà Cha yêu quí.
Tôi được sinh ra trong một tỉnh nhỏ nông nghiệp. Thế chiến II gần kết thúc, tôi 13 tuổi thì cha tôi qua đời. Sau khi cha tôi qua đời, chúng tôi rời đến một trang trại nhỏ ở ngoại ô. Lối sống của chúng tôi thay đổi. Chúng tôi sống gần một phi trường quân sự bị Đức chiếm đón. Họ đóng quân ở truờng học. Trong thời gian chiến tranh chúng tôi đuợc học rất ít. Đôi lần người Đức cho phép học, thì chúng tôi phải học trong những quán ăn, của tiệm hay nhà kho. Một vài thầy dạy duới hầm, khi người Đức không cho phép học. Vì vạy khi kết thúc chếm tranh, vài người chúng tôi biết đọc, biết viết sơ sơ.
Sau chiếm tranh tôi vào nội trú một năm. Những năm tháng ở đó, tôi cảm thấy đần biết bao, kém xa các bạn lớp. Song có một người bạn rất tốt đẫ cho tôi núp bóng. Anh đã giúp tôi học toán, hùng biện. Sau đó tôi ra ngoài học : 4 năm văn phạm và trung học. Cuối cùng tôi đã thành đạt.
Ý tưởng làm Linh mục tôi đã ấp ủ khi còn nhỏ. Nhìn lại, tôi thấy rằng cha mẹ tôi đã có công nhiều với ơn gọi của tôi, vì các ngài yêu mến Giáo hội và Linh mục. Cha sở chúng tôi là cầu nối. Ngài là Linh mục tốt, đạo đức, có tinh thần cầu nguyện, tích cực và mần cảm. Ngài không chỉ ảnh hưởng trên tôi, mà còn trên một số nam nữ để đi tu. Vóc dáng nhỏ nhắn như cái tỉnh lỵ của tôi, song Cha đã có cái nhìn rộng rãi, đầu tư vào việc giáo dục thanh thiếu niên, đặc biệt những em muốn đi tu. Ngài giúp cả tinh thần lẫn vật chất.
Ngài hướng dẫn chúng tôi đi theo ơn gọi, không phải ngồi chờ mà phải hoạt động. Khi quyết định thì biết bao vấn đề xảy đến. Ngài qua đời, mọi người đều thương njhớ đến dự lễ an táng thật đông.
Được chung quanh khích lệ, tôi quyết định vào nhà tập. Đây là nơi kém may mắn nhất đời tôi. Tôi chỉ ở được có hai thánh. Vào thời điểm này cha tôi chết. Người để lại một gia đình đông đúc : Em nhỏ nhất mới có ba tháng. Lợi tức thì ít. Hai chị dầu, mọt anh và tôi thay phiên nhau làm việc để nâng đỡ gia đình. Còn các em kác tiếp tục đi học 22 tuổi tôi dự định cưới một cô gái, song tôi đình lại, vì phải làm để giúp đỡ gia đình. Ba em trai nhỏ coi tôi như là cha, đi đâu cũng theo. Sau cùng cô gái nói với tôi : " Anh nên quyết định là chồng em hay là cha của các em trai em gái của anh".
Trong đầu tôi mang hai áp lực đó, lại còn áp lực thú ba là tôi ước ao học làm Linh mục. Cha ở bảo tôi : " Nếu con thực sự muốn làm Linh mục, con đừng cắm dùi ở đây. Bao lâu con còn cầm chân nơi đây, con sẽ còn được gọi là ch của gia đình con". Vì thế tôi di cư sang Canada và học 6 năm ở chủng viện Thánh Giuse tại Edniston.
Cái nhìn về địa vị Cha sở của tôi là trước tiên tôi phải là người hiệp nhất. Tôi đem họ về và giữ họ lại với nhau. Tôi phải cẩn thận đừng bao giờ gây ra những đụng chạm. Hơn nữa, tôi còn là người giải quyết những đụng độ xảy ra bất cứ ở nơi đâu có những nhóm hướng đi khác nhau. Tôi cần giúp họ ngồi với nhau. để mỗi khi họ đi dâng lễ, họ là một nhóm, một lòng, một ý. Tôi thấy thế giới của Linh mục hơn hay khác xa với thời tôi còn nhỏ. Địa vị Linh mục đã thay đổi. Địa vị không còn. Cha sở đáng kính của tỉnh tôi và tôi chia sẻ với nhau cùng địa vị. Chúng tôi chỉ là nhưngã nhà hiệp nhất.
Mỗi Linh mục có một ơn tông đồ đặc biệt đáp ứng với tài năng riêng của mìh. Tôi thích làm việc ở một Giáo xứ thành phố. Tôi thích làm việc với người trẻ và thích giảng .
Tôi đã làm tốt để các nhóm ngồi với nhau. Thanh niên và các gia đình trẻ bị ném vào một xã hội bắt họ phải mua cái này, làm cái này, giữ cái này, những sự liên lạc thân quen thì xã hội không để ý đủ. Mỗi giây ràng buộc vợ chồng lỏng lẻo, không tiến triển như nó đòi hỏi. Vì thế nhiều học sinh trung học xuất thân từ những gia đình đổ vở, có nhiều em lang thang. Như vậy sự dấn thân và lưu tâm của chúng tôi cần tập trung cho người trẻ. Nếu chúng ta có người trẻ, chúng ta sẽ có tương lai.
Giảng là cơ hội tuyệt vời để liên kết dân lại. Trong Giáo xứ tôi có 2.400 gia đình; chừng 3.000 thành viên đến dự lễ cuối tuần. Có ai khác có cái tai của 3.000 người trên cùng một căn bản ? Khi tôi nói với họ, tôi nên nói cái đáng phải nói. Những phút giảng là những phút cao điểm của cả một tuần. Tôi sẽ chẳng có lúc ào khác để ảnh hưởng trên con số đông như vậy, mà chỉ bằng một vài lời.
Song là nhà giảng thuyết, tôi phải có lòng thương cảm và hiểu biết những vấn đề mà giáo dân tôi phải đương đầu. Vừa rồi một bạn trẻ đến thăm tôi, vị mục tử của anh đã giảng một bài nẩy lửa, cứng như đá chống lại việc ly dị. Người bạn này đã nói với tôi : " Tôi đã lập gia đình được 7 năm, có ba con, vợ tôi bị bệnh tâm thần. Bà ra ngoài, bà đem cả các con theo. Tôi cần vài tia hy vọng để có thể làm gì giải quyết được vấn đề khó khăn của tôi. Thế mà tôi chỉ đuợc nghe những mạt sát về ly dị, không có một chút cảm thông và hiểu biết về hoàn cảnh của tôi".
Những người có vấn đề về gia đình, có khó khăn về việc làm hay sức khoẻ rát cần một người nào đó đem hy vọng lị cho họ. Khi chúng ta có hy vọng, chúng ta sẽ có bình an.
Chẳng có gì, vững bền lâu dài trong thời đại của chúng ta. Đặc biệt là khó khăn cho các bạn trẻ để cố gắng tìm mốtự dấn thân liên lủ. Khi chúng ta đảm nhận một nhiệm vụ, cần thiết chúng ta chỉ nhắm vào đích, mà bỏ lại sau một số việc. Song ngày nay chúng ta lại chr có một ngón tay mà việc thì vô kể. Chúng ta muốn mọi cái tốt , mọi cái dễ chịu. Xã hội ngày nay không khuyến khích chúng ta bỏ mọi sự. Cái kiểu môi trường đó chẳng gợi hứng cho con người làm giao kèo suốt đời với chức Linh mục. Khi một người quyết định lấy vợ, thì có cả 10.000 có khác họ không được cưới. Như vậy kh chúng ta quyết định làm một điều gì, thì chúng ta phải để lại sau vô số những việc khác. Khi tôi chọn đời sống độc thân tức là tôi phải để những cái khác sang bên, kể cả việc tiếp xúc thân mật với một phụ nữ, cũng như con cái từ đó mà có. Bắt cứ một sự thề hứa nào cũng đòi hỏi sự đấu tranh. Tôi luôn nhắc nhở tôi : là người độc thân, và tôi muốn theo đuổi quyết tâm này cho hết phần còn lại đời tôi .
Khi tôi chịu chức, tôi chấp nhậ sự kiện này là sẽ phục vụ sự sống, song trong phục vụ có phấn đấu ? Có nhấn đấu là tốt, Một sự dấn thân mà dễ dàng thì chẳng pải là dấn thân. Niềm vui đến khi ở giữa dòg gió xoắn. Cuối đời nhìn lại mà thấy tôi phạm lỗi từ bỉ đời Linh mục thì sẽ buồn biết bao ! Lúc ấy tôi sẽ bảo tôi : " Bao năm miệt mài học hành để được chịu chức, bây giờ tôi đã để trôi vào ống cống". Thường chúng ta quên rằng bất cứ lời thề hứa nào cùng đòi hy sinh, sụ cống hiến hết mình. Nó không thể chỉ là một lời thề có giới hạn. Chúng ta phải lập lại lời hứa mỗi sáng.
Có nhiều lần tôi đã nghĩ xếp va ly đi về. Phần đông bạn lớp tôi đã bỏ. Một vài người đã viết thư bảo họ không hạnh phúc. Họ nhầm lẫn. Buồn biết bao ! Một trong những khó khăn gặp phải khi muốn đem những Linh mục đó trở về là : nhiều người trong số bỏ đi đã già. Người trẻ Giáo xứ lại cần những Linh mục trẻ để họ quan hệ.
Niềm vui mà hằng ngày tôi cảm nghiệm được là sự phục vụ tôi đang cho có giá. Vui biết mấy khi nghe giáo dân nói : ' Tôi rất sung sướng có Cha ở bên". Hay " Tôi vui mừng thấy Cha tĩnh tâm trở về". Mới đây trog lúc sửa soạn cho hôn lễ, một cô phù dâu xin đuợc nói chuyện với tôi. Cô nói : " Tôi đã xưng tội với Cha gần một năm rồi. Đời sống tôi trước đo rất bê bối. Cha đã giúp tôi. Tôi đã làm đúng những gì Cha bảo và chấp nhận những giá trị mà Chúa Kitô để lại cho chúng ta. Tôi đổi đời hoàn toàn. Bây giờ tôi rất hạnh phúc. Hôm nay tôi đã thoát khỏi nghiện ngập và những thói xấu quấy nhiễu tôi". Một sự kiện nhỏ, nhưng đáng giá
Tại sao hôm nay tôi còn đứng vững ? Tôi tin là tôi có đức tin mạnh vào Chúa. Hầng ngày tôi cảm ơn Chúa về đức tin của tôi. Một điều khác hằng ngày củng cố và dễ dàng giúp tôi đứng vữn là sức mạnh lòng thương của giáo dân dành cho Linh mục. Liên lạc mật thiết với dân xứ là một món quà vô giá Linh mục đến với Giáo xứ gần giống như lên một chiếc tàu qua đời sống phục vụ và giảng dạy. Ngài bỏ cái này cái khác, song Ngài cũng chất cái khác lên. Từ giáo dân Ngài nhận được rất nhiều. Khi ngài rời cảng hành lý Ngài lại đầy.
Nếu không có Linh mục, khi gặp khủng hoảng giáo dân sẽ đi đâu ? Thường những người trở lại với tôi sau một thời gian lâu khi họ than vấn với tôi, họ đã nói với tôi : " Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không được ói chuyện với Cha". Một hai người cho rằng những hy sinh mà chúng ta kêu gọi họ làm rất có giá trị. Chức Linh mục có gía trị rất lớn trong xã hội, dầu ngày nay chúng ta vẫn nhận được những bêu xấu của báo chí.
Chức Linh mục kích thích chung quanh tôi song cũng biến tôi thành một người khác tôi. Và đó là điều sung sướng Linh mục bây giờ hoàn toàn khác lúc tôi còn là cậu bé. Không còn phải là tiếng gọi đầy mộng mơ cuẩ năm xưa, mà hoàn toàn thực tế. Chúng ta giống như các Ngôn sứ thời Cựu ước. Nhiều người trong chúng ta bị bách hại. Nhiều người mất mạng sống. Chúng ta là nhưngd dụng cụ Thiên Chúa dùng để đem sự thật cho dân, rõ ràng và vững chấc nếu có thể được. Nếu Linh mục nào đó đang đi tìm một cuộc picnic, hãy để Ngài lấy rỗ của Ngài và đi xuống sông. Ngài không thể tìm điều đó trong chức Linh mục là một đời sống tuyệt diệu, một đời sống chứa chan niềm vui. Ngài cũng khám phá ra rằng : Ngài có thể là một ảnh hưởng tốt cho hàng trăm hàng ngàn người dân .