FRANCIS
P. FRIEDL
********
(Extraordinary lives)
34 linh mục kể chuyện đời mình
3. RICHARD W. MOYER CAREFREE, ARIZONA
Đức Ông Richard Moyer sinh ngày 12/01/1932 tại Sandusky,
Ohio. Ngài chịu chức để phục vụ giáo phận Tueson, Arizona. Nay Ngài là Cha
sở xứ Đức Mẹ Vui Mừng.
Đức Ông là Cha sở của một Giáo xứ mới và đang phát triển. Ngài nắm giữ nhiều
chức vụ quan trọng của Giáo phận. Kho
nghị lực của Ngài ngoài sức tưởng tuợng. Ngài là tuyên uý Hải quân, là nhạc
sĩ tài năng, là chuyên viên tài chính, dấn thân vào một trong những chương
trình giới trẻ thành công nhất, “Giới trẻ sự sống", một chương trình
lan rộng ra một vài Giáo phận khác. Chúng ta không thể chờ mong một Cha sở
của một xứ lớn, một Tổng đại diện, một chuyên viên tài chánh, dấn thân vào
mục vụ giới trẻ. Song đây là câu chuyện của vị Linh mục đầy chức vụ như vậy.
Khi cha mẹ tôi cưới nhau, cha tôi chưa phải là người Công giáo. Chỉ vài năm
sau, ngài mới gia nhập Giáo hội. Ngài là gương mẫu tuyệt vời của đời tôi :
Một con người trung tín, cần mẫn, biết lo lắng mọi nhu cầu của con cái trong
thời khủng hoảng kinh tế. Ngài qua đời năm 1960, thọ 64 tuổi, vì đau tim,
vừa khi tôi bước chân vào chủng viện : má tôi tái hôn với một người goá vợ.
Tôi đã chứng hôn trong lễ hôn phối này. Chồng mẹ tôi có một người con trai
đang học ở chủng viện và 5 năm sau lễ hôn phối của mẹ tôi và dượng, tôi đã
giảng ngày lễ đầu tay của người em này,
Tôi đã theo học truờng thánh Giuse và trung học trường Sandusky, tốt nghiệp
năm 1950. Chẳng nhớ lắm về những gì tôi đã làm, song tôi nhớ tôi đã chơi âm
nhạc cách tài tử một thời gian và thay thế cho người đánh đàn dương cầm ở
nhà thờ quê tôi. Tôi cũng làm thư ký kiểm soát cho cửa hàng A & P. Tôi
không đủ tiền theo học đại học. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, tôi quyết
định hai việc : đi thăm một vài bạn đồng hương và kiếm một việc làm nào đó
hơn là nhập ngũ. Tháng 2 - 1951 tôi làm một cuộc du hành tới Arizona với hai
người bạn và thăm em tôi đang làm ở Yuma. Tôi đâm ra thích Ariona và biết
rằng một ngày nào đó mình sẽ chọn sống tiểu bang này. Khi trở lại Ohio, tôi
đăng ký vào hải quân và được gửi vào trại huấn luyện ở Đại Hồ. Tôi ở đó hai
năm và vừa làm thư ký vừa đánh đàn cho phòng tuyên uý. Khi đó tôi suy nghĩ
chín chắn về ơn gọi như một loại kinh nghiệm trở về.
Trong hải quân, tôi thấy được hai hạng người : một là sống vừa bãi, coi thường
luân lý đạo đức; hai là một số người đạo đức gắn bó với Chúa. Tôi cảm phục
nhóm thứ hai. Người ở lưng chừng không nhiều. Hoặc hướng thượng họăc là lao
mình vào rượu chè, trai gái, cờ bạc. Tôi cố gắng đi theo lối sống và quyết
định đầy ý thức phải vươn cao. Khi tôi chia sẻ với các cha tuyên uý ý tưởng
muốn làm Linh mục, các ngài đã cho tôi nhiều khuyến khích. Tôi đã cho cha
mẹ tôi biết lý tưởng đó, các ngài đã nâng đỡ tôi. Ở nhà, tôi có người bạn
gái mà tôi định kết hôn. Tôi đến thăm nàng và nói rằng tôi có những chọn lựa
khác. Nàng nói : nàng biết quá mà. Những thuỷ thủ bao giờ cũng có một bạn
gái ở mỗi hải cảng. Tôi nói là nàng không nhìn tôi đúng và tôi tiết lộ lý
tưởng Linh mục của tôi cho nàng biết. Nàng ngỡ ngàng, song trong cách nào
đó, tôi nghĩ nàng sung sướng.
Năm 1953, sau thời gian ở Đại Hồ, tôi được về chiến hạm USS Coral Sea hoạt
động ở Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và biển Caribê. Tôi đã đi Âu Châu hai
lần cùng với hạm đội 6, hạm đội đã tham gia vào thế chiến hai. Tôi có nhiều
dịp du lịch và thăm những địa điểm trong Kinh Thánh: Roma, Hi Lạp và các thành
phố mà thánh Phaolô đã đặt chân trong những hành trình truyền giáo. Một trong
những ảnh hưởng mạnh nhất đến ơn gọi của tôi là cha tuyên uý chiến hạm Coral
Sea, Đức Ông Richard Holmes, một con người tuyệt vời.
Trong năm cuối chủng viện, tư tưởng của nhà thần học dòng Đaminh, Edward Schillebeek
được giới thiệu. Các bí tích trở nên thân thiết, năng động và có tính cách
cá nhân. Nhận thức này, một trào lưu tư tưởng, khác cách trình bày kiểu máy
móc tự động, đã đổi thay đời tôi.
Bài sai đầu tiên của tôi là được sai đến xứ thánh Phanxicô Xaviê ở Yuma. Thật
là hạnh phúc. Cha sở là cha Henry Miller. Ngài là típ người sẵn sàng thảo
luận với bạn về những mặt mạnh của bạn, dựa vào đó để bạn quyết định và để
bạn làm. Năm 1967 Đức Giám mục sai tôi tới xứ Thánh Phêrô và Phaolô ở Tueson,
rồi sau đó là phụ tá giám đốc cơ quan bác ái. Khi Giáo phận Phoenix được thiết
lập, tôi làm giám đốc cơ quan bác ái của giáo phận. Năm 1982 Đức Cha O’Brien
chỉ định tôi làm Cha sở xứ Thánh Giê-rôm. Một Giáo xứ đã cho tôi niềm vui
cuộc đời, chẳng bao lâu Đức Cha đặt tôi làm Tổng đại diện.
Năm 1984 Đức Cha sai tôi tới miền Bắc Arizona và đặt tôi làm giám quản miền
này. Hai năm sau kiêm nhiệm Cha sở xứ Thánh Gioan Vianê ở Sedona. Tôi thoả
mãn với công việc giám quản, song chỉ làm Cha sở thì thích hơn. Năm 1988 tôi
được sai về Nhà thờ Chánh toà với công việc chưởng khế.
Ít lâu sau tới Chính toà, Đức Cha đặt tôi làm quản lý. Năm 1993 Đức Cha cho
tôi cơ hội quản trị xứ Đức Mẹ Vui Mừng, nếu tôi vẫn phụ trách tài chánh cho
Giáo phận. Sau đó tôi được làm Cha sở luôn. Hiện nay tôi giữ 3 trọng trách
: Cha sở, Tổng đại diện và quản lý. Từ văn phòng Giáo xứ tôi dùng máy vi tính
nối mạng để có thể làm đuợc nhiều việc cho hai nhiệm vụ sau .
32 năm tôi cố gắng truyền đạt cho dân biết Chúa Giêsu là thật và mỗi người
có thể thiết lập sự liên lạc với Chúa như liên lạc với bất cứ ai. Quan niệm
này đã tăng nghị lực cho tôi trong những ngày đầu đời Linh mục.
Tôi đã cử hành thánh lễ tư gia lần đầu với những học sinh lớp 6 sau khi chúng
đã học hỏi về bí tích Thánh Thể 6 tuần. Tôi xin chúng vẽ trên giấy những gì
chúng đã thâu lượm. Sau tôi đã dùng những tấm giáy này như những tài liệu
để tìm hiểu thánh lễ. Những gì chúng diễn tả qua hình vẽ rất hấp dẫn. Tôi
đã dùng các em để dạy các giáo lý viên trong khoá huấn luyện hằng năm của
Giáo phận. Những gì chúng làm thật lạ lùng, giống như Chúa Giêsu giảng dạy
trong đền thờ khi Người 12 tuổi.
Khi học về mỗi bí tích chúng tôi kết thúc bằng một cử hành mà cả nhóm đều
tham gia. Chẳng hạn, khi học về bí tích Rửa tội, thì có một trong các người
mẹ của các em trong lớp có thai. Các em làm giấy báo tin và làm áo trắng rửa
tội. Em bé sẽ là em bé của chúng và gia đình em bé sẽ là gia đình của chúng.
Chúng học cách đón một ai đó vào gia đình Chúa bằng kinh nghiệm thì tốt hơn
là chỉ lý thuyết trong lớp.
Cảm nhận của tôi về nhu cầu của dân chúng là những người từ 24 - 45 tuổi rất
cần sự săn sóc của Linh mục. Họ gặp khủng hoảng khi xảy ra những biến động
lớn : chẳng hạn chiến tranh VN, cuộc cách mạng tình dục, giá trị đạo đức xuống
dốc. Họ là nhóm người mà số đông nhất là các bà mẹ lao động. Họ bị mất mát
nhiều và niềm tin cuộc sống bị lung lay. Chúng tôi cần tìm ra những đường
lối để lôi kéo họ tham gia vào các chương trình huấn luyện hầu tăng cường
đức tin cho họ. Nhiều cha mẹ ngày nay đức tin yếu kém khó mà truyền lại cho
con cái. Dâng lễ đối với họ không quan trọng, chúng tôi có một số người tín
hữu đến thăm bất thường, vì họ đến khi họ có nhu cầu cho họ hay con cái họ
thôi.
Giới trẻ cũng cần sự giúp đỡ, Chúng phải đương đầu với những thử thách lớn
lao hơn khi chúng ta vào tuổi họ. Sự hoạt động liên tục của tôi với giới trẻ
cho biết rằng : Nếu chúng ta cho họ những gì vững chắc, nếu chúng ta mở cho
họ biết đức tin là tất cả, thì họ đáp ứng rất tích cực.
Năm 1978 Cha Dale Fushek được bổ nhiệm về Giáo xứ Thánh Giê-rôm ngay sau khi
chịu chức : Cha có một tài năng đặc biệt về giới trẻ. Cha đã lập hội "
Giới trẻ Công giáo hoạt động". Tôi và Cha cùng tổ chức những cuộc tĩnh
tâm cho giới trẻ. Năm 1985 Cha là Cha sở xứ Thánh Timôthê ở Mesa. Ở đó Cha
lập ra phong trào “Giới trẻ sự sống" Phong trào đã lan ra 350 xứ khắp
nước Mỹ. Tôi đã tham gia vào phong trào này và tôi vẫn tiếp tục giúp trong
các khoá huấn luyện mùa hè. Trong vòng 5 - 6 năm qua, tôi đã huấn luyện hơn
800 mục vụ viên và linh mục chuyên lo cho giới trẻ. Ở Giáo xứ tôi cũng có
phong trào này.
Trọng tâm của phong trào là Bí tích Thánh Thể và Thánh lễ. Từ 1.500 đến 1.700
thường xuyên đến dự những thánh lễ giới trẻ ở nhà thờ thánh Antôn. Không phải
hoàn toàn là giới trẻ, cũng có một vài phụ huynh hay anh chị của họ. Âm nhạc
và bài giảng kích thích họ. Họ giúp lễ, đọc sách, dâng lễ, hát. Phần nhiều
phong trào dựa trên các linh mục đồng lứa tuổi và với sự hỗ trợ của nhóm cốt
cán kinh nghiệm của phong trào “Giới trẻ sự sống". Mỗi nhóm nhiều nhất
là 30 hội viên. Sau thánh lễ là sinh hoạt tối. Một vài tối nói về xã hội,
vài tối về giáo dục, vài tối về những vấn đề có định hướng liên quan đến những
vấn đề mà giới trẻ phải trực diện, chẳng hạn : Luân lý, phá thai, căng thẳng
của thanh niên. Chúng tôi cố gắng triển khai những vấn đề của địa phương.
Những khủng hoảng thời đại cần mau chóng có những hướng dẫn trong sinh hoạt
tối. Thánh lễ kéo dài chừng 1giờ rưỡi. Sau đó là họp 1g30 nữa. Người trẻ gặp
nhau vào mỗi Chúa nhật, nhiều ơn gọi đã xuất phát từ phong trào. Năm qua có
30 bạn đăng ký ở xứ thánh Antôn. Họ được các bạn trẻ khác dẫn đến, có sự đồng
ý của cha mẹ.
Các giáo xứ tham gia làm sao ? Hầu hết các giáo xứ đều có phong trào “Giới
trẻ sự sống". Một vài xứ không có khả năng tập họp hằng tuần, một tháng
có một lần. Giáo xứ tôi có vài thanh niên, nên chưa lập được phong trào. Tuy
nhiên chúng tôi có thánh lễ cho giới trẻ. Chúng tôi mời họ đọc sách thánh,
hát và tham gia các mục vụ của giáo xứ. Phần nhiều được thực hiện trong những
dịp tĩnh tâm. Chúng tôi cố gắng tổ chức một năm hai lần. Chúng tôi tổ chức
trên núi hay ở vưòn bách thảo. Không có những vui chơi giải trí. Mỗi lần tối
đa là 192 bạn. Nhiều kinh nghiệm về những đổi thay cuộc sống được trao đổi
ở đây. Cha Dale là vị sáng lập phong trào. Tôi chỉ âm thầm tham gia và điều
hành vài buổi tĩnh tâm ba ngày. Bạn chẳng cần phải buộc các bạn trẻ tham dự,
hoàn toàn tình nguyện.
Tôi chịu khó giải tội, nhất là cho các bạn trẻ. Tôi thấy nơi giới trẻ có nhiều
nét đặc biệt hơn các bạn trẻ thời tôi. Các bạn trẻ ngày nay sẵn sàng chia
sẻ cuộc sống với bạn. Họ dễ chấp nhận đề nghị và dễ dàng thay đổi. Thật rất
là giàu kinh nghiệm khi tôi lắng nghe, khích lệ, đặt vấn đề và chấp nhận họ.
Mặc dầu có vài bạn bè của tôi đã bỏ lý tưởng Linh mục, song tôi không bao
giờ nghĩ sẽ làm thế. Trước hết, tôi đã thề hứa, tôi không coi nhẹ lời thề.
Thứ đến, đó là nếp sống phong phú và đặc ân. Lạ lùng biết bao là được trở
nên một yếu tố quan trọng của cuộc đời của biết bao dân chúng, không phải
của một người. Đời Linh mục cho đức tin tôi sống động. Tôi đã chứng kiến nhiều
người vượt qua được những khủng hoảng, những thảm cảnh và đức tin của họ vẫn
là sức chống đỡ trong cuộc sống. Khi chúng ta đến với những người đau khổ,
chúng ta rất có ảnh hưởng, trên đời họ.
Mối liên lạc mà tôi thể hiện với tư cách Linh mục quả thật là đẹp. Khi chúng
ta xây một ngôi nhà, sau khi hoàn thành chúng ta thấy được kết quả của việc
làm. Còn khi chúng ta làm việc với dân chúng, chúng ta không bao giờ thấy
hết, chỉ trừ khi họ đến kể lại cho chúng ta. Thế nhưng chúng ta xây dựng được
một sự liên lạc hỗ tương và hữu ích. Khi tôi là một người làm công tác xã
hội, tôi thường dẫn người ta tới một địa điểm tham vấn nào đó, rồi đưa họ
tới vị Linh mục. Tôi vào chủng viện, vì tôi muốn là người không chỉ dừng ở
ngưỡng cửa bí tích, mà còn muốn đưa người ta tới một Đấng khác. Tôi muốn tham
gia vào tiến trình vòng tròn đầy đặn đó.