Vần thơ máu hồng

Cha Giuse Huyên vì lòng mộ mến gương các Thánh tiền nhân, ngày xưa họ sống chết cho đức tin vào Chúa, đã dệt nên những vần thơ lục bát ghi lại gương đời sống các Thánh Tử Đạo Việtnam.

Những vần thơ lục bát ngắn gọn, đơn sơ, nhưng chan chứa tâm tình vừa đạo đức tình người, vừa văn chương triết lý bình dân, cùng pha trộn chứng tích lịch sử về các Thánh Tử Đạo.

Kỷ niệm nhớ về 117 vị Thánh tiền nhân đã sống chết vì đức tin vào Thiên Chúa, được tôn phong lên hàng Hiển Thánh trong Giáo Hội Công giáo, là việc phải đạo và chính đáng.

Nhớ về các Ngài không chỉ với tâm tình buồn thương nhớ tiếc hay cùng đau khổ. Cũng chẳng phải chỉ với tâm tình thành kính cùng vui mừng hãnh diện. Nhưng còn là cơ hội tốt suy nghĩ học theo gương sống đức tin của các Ngài: Đời cha tử đạo. Đời con sống đạo

1.Thánh GIUSE TUÂN, Giáo dân, *1825 + 07.01.1862

Giu-se Tuân là giáo dân,
dưới thời Tự-Đức thánh nhân trảm hình.
Pháp trường Nam-Định quang vinh,
Lời Ngài: “ Thánh Giá an bình thiên thai!”
Mất năm mười tám sáu hai,
Hằng năm mùng Bẩy kính Ngài tháng Giêng.

2. Thánh Đaminh ĐINH VIẾT KHẢM, Giáo dân, +13.01.1859
ThánhLuca PHẠM VĂN THÌN, Linh mục,
Thánh Giuse TẢ

Đaminh Khảm thánh trưởng gia,
Bạn: Giu-se Tả; con Lu-ca Thìn.
Nhà giàu Nam Định, vì tin,
Cửa nhà tan nát, gia đình tan hoang.
Mười tám năm chín vinh quang,
Mười ba kính nhớ huy hoàng tháng Giêng.

3. Thánh Mátthêu Anphongsô ĐẬU ( Lezinniana)
Thánh Phanxicô TẾ ( Gil de Federich)

Mát-thêu Đậu thuộc Đaminh,
Phan-xi-cô Tế cùng Linh mục Dòng.
Tây-ban-nha tới Viễn đông,
Lên đường truyền giáo cánh đồng xa-xăm.
Trảm hình mười bẩy bốn lăm,
Hăm hai kính nhớ ngày nhằm tháng Giêng.

4. Thánh Tôma KHUÔNG, Lm. (1780-1860)

Tôma Khuông linh-mục Đa-minh,
Hưng Yên quê quán tươi xinh Bắc-phần.
Qua cầu Trần-Xá dừng chân,
Tránh cây Thánh gía phúc âm giữa trời.
Trảm hình mười tám sáu mươi.
Ba mươi kính nhớ muôn người tháng Giêng.

5. Thánh Gioan Thêophan VEN, Lm (1829-1861)

Thánh Ven tên thật Venard,
Thừa sai người Pháp, con nhà gia phong.
Sáu năm truyền giáo long đong,
Pháp trường Cầu Giấy quyết lòng hy sinh.
Mười tám sáu mốt trảm hình.
Mồng hai kính nhớ trọn tình tháng Hai.

6. Thánh Laurensô HỬƠNG ( 1802-1856)

Lau-ren-sô Hưởng thông minh,
Quê vùng Hà-nội là linh mục triều.
Đường ơi, kẻ liệt tiêu điều,
trên sông bị bắt đò chiều Vân-Du.
Mười tám năm sáu tội tù,
Mười Ba, Hai thiếu thiên thu kính ngài.

7. Thánh Phaolô LỘC , Lm. (1830-1859)

Phao-lô Lộc sớm mồ côi,
Sinh tại Gia định cái nôi Nam phần.
Pe-nang du học chuyên cần,
Bề trên chủng viện gian truân bấy giờ.
Mười tám năm tám sa cơ,
Mười ba lễ kính bây giờ tháng Hai.

8. Thánh Đaminh CẨM , Lm (+1859)

Đaminh Cẩm xứ Bắc-Ninh,
cha còn gia nhân Đaminh hội dòng.
Rời nơi trú ẩn long đong,
Thi hành nhiệm vụ vì lòng yêu dân.
Mười tám năm chín ly trần,
Tháng Ba, mười một con dân kính Ngài.

9. Thánh Đaminh TƯỚC ( Lm +1839)

Đa-minh Tước phận long đong,
Quê nhà Nam Định, thuộc Dòng Đaminh.
Mười tám ba chín tội tình,
Giáo dân muốn cứu liều mình ra tay.
Quan ra lệnh đập chết ngay,
Tháng Tư lễ kính nhằm ngày mồng Hai.

10. Thánh LÊ BẢO TỊNH ( Lm 1792 -1857)

Phaolô Tịnh sớm xa đời,
Quê hương Thanh Hóa, một thời ẩn tu.
Bẩy năm Hà-nội ngồi tù,
Linh mục hăm sáu mùa Thu tuổi đời.
Mười tám năm bẩy đầu rơi,
Kính ngày mồng sáu giữa trời tháng Tư.

11. Thánh Phêorô LỰU ( Lm 1812-1861)

Phê- rô Lựu quyết một lòng,
Cha sở Mặc Bắc, Vĩnh Long Nam phần.
Dưới triều Tự đức ác nhân,
mười tám sáu một thông phần quang vinh.
Mỹ Tho lưu dấu tội tình,
Tháng Tư mồng Bẩy anh linh kính mừng.

12. Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN ( Lm)
Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU (Thầy Giảng)
Thánh Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH ( Thầy giảng)
(+1840)

Cha Khoan, Thầy Hiếu, Thầy Thành,
Ninh Bình khí phách hùng anh sáng ngời:
“ chẳng yêu sự sống trên đời,
chỉ yêu sự sống trên trời xinh tươi!”
Xử năm mười tám bốn mươi,
Tháng Tư hăm tám muôn người kính tôn.

13. Thánh Giuse TUÂN ( Lm 1821-1861)

Giu-se Tuân thuộc Đa-minh,
Hưng Yên nhuầm thấm anh tinh máu đào.
Trốn vì bắt đạo gắt gao,
Giáo quan chỉ điểm rơi vào vòng vây.
Mười tám sáu mốt phơi thây,
Ba mươi kính nhớ ngày đầy tháng Tư.

14. Thánh Augustinô ĐÔNG ( Schoeffler Lm +1851)
Thánh Gioan Aloisiô HƯƠNG ( Bonard, Lm +1852)

Cha Đông cùng với Cha Hương,
Thừa sai bên Pháp lên đường viễn phương.
Cha Đông rồi tới cha Hương,
Sơn Tây, Nam Định pháp trường khoan thai.
Mười tám năm mốt, năm hai,
Tháng Năm mồng Một các Ngài kính chung.

15. Thánh Giuse NGUYỄN VĂN LỰU ( Trùm họ 1790-1854)

Giuse Lựu họ Cái Nhum,
Vĩnh Long quê quán ông Trùm thông minh.
Tuổi gìa sức yếu cực hình,
Hy sinh vì đạo thần linh nhân từ.
Rũ tù mười tám năm tư,
Tháng Năm tôn kính Ngài Từ mồng hai.

16. Thánh Giuse ĐỖ QUANG HIỂN ( Lm 1775-1840)

Giu-se Hiển thuộc Đa-minh,
Quê nhà Nam Định là linh mục dòng.
Cha xứ Cao Mộc lưu vong,
kẻ gian tố giác, sẵn lòng vui tươi.
Tử hình mười tám bốn mươi,
Tháng Năm mồng Chín muôn người kính tôn.


17. Thánh Matthêu LÊ VĂN GẪM , Giáo dân 1813-1847

Matthêu Gẫm thánh lái buôn,
Biên Hòa quê cũ, gian truân hải hành.
Mã-lai đưa đón trung thành,
chở nhà truyền giáo gió lành Hạ Châu.
Mười tám bốn bẩy rơi đầu,
Tháng Năm, mười một lời cầu kính tôn.

18. Thánh Laurensô NGÔN, Giáo dân, +1862

Thánh Ngôn tài trí thanh niên,
Quê hương Nam Định thuộc miền Bùi Chu.
Hai lần ra khám vào tù:
“ Tôi tin Thiên Chúa chẳng thù oán ai!”
Xử năm mười tám sáu hai,
Tháng Năm hãy nhớ hăm hai kính Ngài.

19. Thánh Micae HỒ ĐÌNH Hy giáo dân 1808-1857.

Thánh quan thái bộc là Hy,
Thừa Thiên quê quán, màng chi danh tài.
Tham quan bịa chuyện hại ngài,
Cho dù qúy mến vua sai chém đầu.
Mười tám năm bẩy rơi đầu,
Tháng Năm nhắc nhớ nguyện cầu hăm hai.

20. Thánh Phêrô ĐÒAN VĂN VÂN, Thầy giảng, 1780-1857

Thánh Vân thầy giảng tín trung,
Hà Nam quê quán, giúp vùng Sơn tây.
Về làm quản lý nơi đây,
Tưởng lầm linh mục nên thầy vạ lây.
Mười tám năm bẩy phơi thây,
Tháng Năm mừng kính vơi đầy hăm lăm.

21. Thánh Gioan ĐOÀN TRINH HOAN, Linh mục * 1789 +26.05.1861
Thánh Matthêo NGUYỂN VĂN ĐẮC (PHƯỢNG), Giáo dân ( + 25.06.1861)

Thánh Hoan linh mục Thừa Thiên,
Ông Trùm họ Phượng con chiên Quảng Bình.
Cha thì có kẻ thưa trình,
Ông Trùm chứa chấp vì tình cha con.
Mười tám sáu mốt sắt son,
Tháng Năm hăm sáu vẫn còn khắc ghi.

22. Thánh Phaolô HẠNH, Giáo dân 1827-1859.

Phao-lô Hạnh Thánh giáo dân,
Sàigòn sinh quán, lòng nhân ái nhiều.
Gương lành, đạo hạnh thương yêu.
Lệnh vua Tự Đức dưới triều tàn hung.
Mười tám năm chín anh hùng,
Tháng Năm hăm tám hát chung lời mừng.

23.Thánh Giuse TÚC, Giáo dân *1852- + 01.06.1862.

Giu-se Túc tuổi hoa niên,
Lệnh vua vẫn kém Chúa hiền tôi trung.
Pháp trường Nam Định anh hùng,
Tránh cây Thánh Gía muôn trùng chông gai.
Trảm hình mười tám sáu hai,
Ngày đầu tháng sáu kính Ngài quang vinh.

24. Thánh Đaminh NINH, Giáo dân * 1835 +2.6.1862

Đa-minh Ninh Thánh nông dân,
Ngoài hai mươi tuổi, muôn phần bể dâu.
Tránh cây Thánh gía nhiệm mầu,
ngồi tù Nam Định nguyện cầu hôm mai.
Trảm hình mười tám sáu hai,
Mồng hai tháng sáu trên đài vinh quang.

25. Thánh Phaolô DƯƠNG (ĐỔNG) , Giáo dân *1792 + 03.06.1862

Phao-lô Đổng đất Thái Bình,
Giáo dân khí phách: lý tình song đôi.
Không khắc “ tả đạo” thì thôi,
Lại khắc “ chính đạo” lên đôi má ngài.
Trảm hình mười tám sáu hai,
Mồng Ba tháng Sáu ca bài hùng anh.

26. Thánh Luca VŨ BÁ LOAN, Linh mục 1756-1840

Cha Loan tuổi đã xế chiều,
Coi xứ Kẻ Sặt thương yêu Cộng đoàn.
Bắt đòi hối lộ lấy công,
Tấm thân gìa yếu cùm gông vẫn cười.
Trảm hình mười tám bốn mươi,
Mồng Năm tháng sáu muôn người ghi ơn.

27. Thánh Đaminh TOÁI và
Thánh Đaminh HUYÊN, Giáo dân, + 05.06.1862.

Thánh Huyên, Thánh Toái, Thái Bình,
Hành nghề ngư phủ gia đình an vui.
Tù chung chia sẻ ngọt bùi,
cực hình cay đắng ngậm ngùi chia hai.
Thiêu sinh mười tám sáu hai,
Mồng Năm tháng sáu có ai quên Ngài?

28. Thánh Phêrô DŨNG,
Thánh Phêrô THUẦN
và Vinhsơn DƯƠNG, Gíáo dân
+06.06.1862

Thánh Thuần, Thánh Dũng, Thánh Dương,
Nông gia, ngư phủ nêu gương anh hùng.
Thái Bình: Đông Phủ, Doãn Trung,
Thiêu sinh vì Chúa lửa bùng chưa phai.
Mất năm mười tám sáu hai,
Tháng ngày đều Sáu các Ngài hiển vinh.

29. Thánh Augustinô PHAN VIẾT HUY
Thánh NI côlao BÙI ĐỨC THỂ
Thánh Đaminh ĐINH ĐẠT +1839, Giáo dân.

Thánh Huy, Thể, Đạt quân nhân,
Quê nhà Nam Định, thân nhân nặng tình.
Một lần bỏ đạo quang minh,
Thành tâm thống hối nộp mình chuộc công.
Mười tám ba chín ngóng trông.
Mưòi hai tháng Sáu thưởng công ba Ngài.

30. Thánh Đaminh NHI, Đaminh MẠO, Đaminh NGUYÊN
Anrê TƯỜNG và Vinhsơn TƯỞNG ( +1862)

Thánh Nhi, Thánh Mạo, Thánh Nguyên,
Thánh Tường, Thánh Tưởng gia truyền nông dân.
Nhà giàu Nam Định muôn phần,
Sợ chi gian khổ xác thân lâu dài.
Trảm hình mười tám sáu hai,
Mười sáu tháng Sáu các Ngài phục sinh.

31. Thánh Phêrô ĐA, ( +1862) Giáo dân.

Đa-minh Đa tuổi sáu mươi,
Giáo dân đạo hạnh, yêu người nêu gương.
Bùi Chu, Nam Định quê hương,
Lưu đày vì Chúa lên đường hôm mai.
Thiêu sinh mười tám sáu hai,
Mười bẩy tháng sáu thiên thai chầu trời.

32. Thánh Đaminh MINH ( HENARES) Giám mục
Thánh Phanxicô ĐỖ VĂN CHIỂU, Thầy giảng. ( + 1838)

Đức cha Minh sớm tha hương,
Tây ban Nha chốn quê hương ngàn trùng.
Có Thầy giảng Chiểu tôi trung,
Cha con bị tố để cùng hy sinh.
Mười tám ba tám trảm hình,
Hăm sáu tháng sáu quang vinh chung phần.

33. Thánh Toma TOÁN, Thầy giảng *1765- +1840

To-ma Toán thầy Đa-minh,
cửa nhà Nam Định, chân tình cao niên.
Gìa nên lỡ chối đạo hiền,
chọn tù đền tội hiển nhiên lòng người.
Rũ tù mười tám bốn mươi.
Hăm bảy tháng Sáu muôn người tung hô.

34. Thánh Vinhsơn ĐỖ YẾN, Linh mục 1764-1838

Vinh-Sơn Đỗ Yến là cha,
Quê hương Nam Định, tuổi gìa bẩy tư.
Trông coi Kẻ Sặt nhân từ,
cải trang bị bắt chẳng trừ cao niên.
Mười tám ba tám quy tiên,
Ba mươi tháng Sáu ngợi khen dân hiền

35. Thánh Philippê PHAN VĂN MINH, Linh mục 1815-1853

Cha Minh sinh tại Vĩnh Long,
Pe-nang du học cõi lòng nước mây.
Bếp Nhẫn phản bội bán thầy,
Cha Minh hay Lựu thay thầy thế cha.
Trảm hình mười tám năm ba,
Mồng ba tháng Bẩy muôn nhà kính tôn.

36. Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH UYỂN, Thầy giảng, +1838

Thày Giu-se Uyển anh hào,
Quê ở Nam Định giải vào Hưng Yên.
Cùm gông chẳng thấm ưu phiền,
Sáu ba tuổi thọ triều thiên nước trời.
Mười tám ba tám trút hơi,
Tháng Bẩy mùng bốn sáng ngời vinh quang.

37. Thánh Phero NGUYỄN KHẮC TỰ, Thầy giảng, 1811-1840.

Thày Tự sinh tại Ninh Bình,
Cha Cao theo giúp tận tình hy sinh.
Trong tù gặp lại tiên sinh,
Nghe án xử giảo, miệng xinh tươi cười.
Vể trời mười tám bốn mươi,
Mùng mười tháng bẩy muôn người kính tôn.

38. Thánh Anton NGUYỄN HỮU QUỲNH, Giáo dân +1840.

Trùm Quỳnh thấy thuốc cao niên,
Cha, thày cùng bắt kẻ hiền tù chung.
Quan quân dụ dỗ tôi trung,
Reo vui án tử, anh hùng hy sinh.
Cùng năm Thánh Tự tử hình,
Mùng mười tháng bẩy hát kinh kính chào.

39. Thánh Annê LÊ THỊ THÀNH, +1841)

An-nê Thành, thánh anh thư,
Sinh tại Thanh Hóa, định cư Ninh Bình.
Tấm gương bà mẹ hy sinh,
tội vì giúp đỡ tận tình các cha.
Mười tám bốn mốt hoan ca,
Mười hai tháng bẩy kính Bà trên ngai.

40. Thánh Phero KHÁNH, Linh mục 1780-1842

Cha Khánh sinh tại Ngệ An,
gặp thời Thiệu Trị gian nan phũ phàng.
Trung thành sứ mạng cao sang,
Pháp trường Hà Tĩnh ngàn vàng không phai.
Trảm hình mười tám bốn hai,
Mười hai tháng bẩy kính Ngài thiên thu.

41. Thánh Phêrô NGUYỄ BÁ TUẦN, Lm. 1766-1838

Cha Tuần sinh tại Hưng Yên,
đường tu dai dẳng triền miên đợi chờ.
Kẻ tham lạm dụng thời cơ,
Cha gìa vào ngục, mắt mờ, bẩy hai.
Mười tám ba tám thiên thai,
Mười hai tháng Bẩy kính Ngài hiển vinh.

42. Thánh Anrê NGUYỄ KIM Thông ( Năm Thuông), Thầygi ảng ,1790-1855

Thày Thông, Bình Định quê hương,
Cánh đồng truyền giáo muôn phương vun trồng.
Có người cháu nội tố ông,
Mỹ Tho biệt xứ, tin hồng biệt tăm.
Trút hơi mười tám năm lăm,
Mười lăm tháng Bẩy hàng năm nhớ Ngài.

43. Thánh Giuse DIAZ SANJURJO AN , GM 1818-1857

Thánh An giám mục Bùi Chu,
Tây ban Nha bỏ, mây mù trời Nam.
Có quan gian ác tham lam,
Bắt giam lãnh thưởng nên cam tội tình.
Mười tám bẩy tám trảm hình,
Hai mươi tháng Bẩy quang vinh trên tòa.

44. Thánh Ignatio Delgado Y Cebrian HY , GM. 1762-1838

Tây ban Nha tới Viễn Đông,
Thánh Hy Giám mục tại Đông Đàng Ngoài.
Cũi ngoài mưa nắng mệt nhoài,
chết còn xử trảm, thù hoài chưa tha.
Mười tám ba tám về Cha,
Hai mốt tháng Bẩy hoan ca kính mừng.

45. Thánh Giuse FERNANDEZ HIỀN, Lm. 1774-1838

Giuse Hiền thuộc Đa-minh,
Tây ban Nha bỏ, nặng tình Trời cao.
Minh Mạng cấm đạo gắt gao,
Quần Liêu chạy trốn rồi vào Kim Sơn.
Mười tám ba tám không sờn,
Hai tư tháng Bẩy nhớ ơn của Ngài.

46. Thánh Giuse Melchior Garcia Sampedro XUYÊN, Gm. 1821-1858.

Thánh Xuyên xuất xứ nhà nghèo,
Tây ban Nha bỏ, để theo Thày mình.
Cha phó Giám tỉnh Đa Minh,
Giám mục phụ tá trọn tình từ bi.
Mười tám năm tám lăng trì,
Hai tám tháng Bẩy mãi ghi danh Ngài.

47. Thánh Phero ĐOÀn CÔNG QÚY, Lm. 1862-1859
Thánh Emmanuel LÊ VĂN PHỤNG, Gd 1796-1859

Phê- rô Qúy, họ sang giầu,
Đàng Ngoài nguyên quán, xuôi tàu Đàng Trong.
An Giang chánh sở long đong,
Ông Câu thánh Phụng một lòng cha con.
Mười tám năm chín sắt son,
Ba mốt tháng Bẩy máu còn lưu danh.

48. Thánh Bênađô VÕ VĂN DUỆ, 1755-1838, Lm.
Thánh Đaminh NGUYỄN VĂN HẠNH, 1772-1838, Lm.

Vì dân Thánh Duệ nộp mình,
cha gìa Nam Định coi khinh ngục hình.
Nghệ An, cha Hạnh Đaminh,
Tù chung cho thắm mối tình cao sâu.
Mười tám ba tám rơi đầu,
Mồng Một tháng Tám lời cầu vang vang.

49. Thánh Giacôbê MAI N ĂM, Lm. 1781-1838
Thánh Antôn NGUYỄN Đích , Giáo dân + 1838
Thánh Micae NGUYỄN HUY MỸ, giáo dân 1804-1838

Cha Năm, Thanh Hóa quê hương,
ẩn nhà Trùm Đích tìm đường giúp dân.
Rể là Lý Mỹ lụy thân,
bắt tại Vĩnh Trị, lãnh phần tù chung.
Mười tám ba tám oai hùng,
Mười hai tháng Tám tôi trung rạng ngời.

50. Thánh Giuse ĐẶNG ĐÌNH VIÊN, Lm. 1785-1838

Cha Viên sinh tại Hưng Yên,
vào tu Nam Định, nhân hiền khiêm cung.
Đích danh Tổng Đốc cho lùng,
họ hàng chỉ điểm anh hùng hy sinh.
Mười tám ba tám trảm hình,
Hai Mốt tháng Tám quang vinh muôn đời.

51. Thánh Phero NGUYỄN VĂN TỰ, Lm. 1796-1838
Thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh, Giáo dân 1763 -1838

Cha Tự Nam Định quê hương,
cùng quan đấu lý tỏ tường hiên ngang.
Trùm Cảnh quê ở Bắc Giang,
Cha và thấy thuốc lỡ làng tù chung.
Mười tám ba tám ung dung,
Mồng Năm tháng Chín anh hùng song đôi.

52. Thánh Emmanuel NGUYỄN VĂN TRIỆU, Lm. +1789

Cha Triệu xứ Huế quần thần,
trốn ra đất Bắc tu thân thành tài.
Về Kinh sứ mệnh Chúa sai,
bắt ngay quê cũ, xử Ngài cướp gian.
Mười bẩy chín tám gian nan,
Mười bẩy tháng Chín trên bàn thờ cao.

53. Thánh Đaminh TRẠCH (ĐOÀI), Lm. 1792-1840

Thánh Đa-minh Trạch anh linh,
sinh tại Nam Định, Đa-minh cha dòng.
Cuộc đời mụuc thước oai phong,
tù mang bệnh tật tấm lòng vẫn tươi.
Trảm hình mười tám bốn mươi,
mười tám tháng Chín người người kính tôn.

54. Thánh Gioan Charles TÂN ( Cornay), Lm. 1809 – 1837
Cha Tân Pháp quốc quê xa,
ra đi truyền giáo, mẹ cha nghẹn lời.
Bệnh không về Pháp nghỉ ngơi,
ở lại tử đạo, trọn đời ra đi,
Mười tám ba bẩy lăng trì,
hai mươi tháng chín sử ghi muôn đời.

55. Thánh Phanxicô PHAN ( Jaccard) , Lm. 1799-1838)
Thánh Tôma TRẦN VĂN THIỆN, chủng sinh 1820-1838

Cha Phan rời Pháp cuối mùa,
giám đốc chủng viện, giúp vua tận tình.
Thày Thiên quê xứ Quảng Bình,
thày trò quyết chí dâng mình hy sinh.
Mười tám ba tám giảo hình,
hai mốt tháng Chín lung linh bàn thờ.

56. Thánh Phanxicô TRẦN VĂN TRUNG, Giáo dân 1825-1858

Thánh Trung cai đội quân nhân,
sinh vùng Quảng Trị, tinh thần trượng phu.
Vì không hối lộ bị tù,
tha đi đánh giặc, đền bù dâng hương.
Mười tám năm tám pháp trường,
Tháng Mười mồng Sáu tấm gương ngàn đời.

57. Thánh Phero Lê văn Tùy, lm. 1773-1833

Cha Tùy quê ở Hà Đông,
Nam Đường chánh xứ cánh đồng Chúa trao.
Xức dầu họ lẻ gian lao,
Ngoại nhân bắt nộp, xôn xao xứ nhà.
Trảm hình mười tám ba ba,
Tháng Mười, Mười Một hoan ca kính chào.

58. Thánh Phanxicô Isiđôrô Gaselin KÍNH , Lm. 1799-1833

Cha Kính từ Pháp sang Nam,
đến kinh đô Huế chẳng tham chức quyền.
Giúp Vua, nước Chúa loan truyền,
nộp mình tự nguyện, để khuyên dân nhà.
Giảo hình mười tám ba ba,
Tháng Mười, mười bẩy gần xa kính Ngài.

59. Thánh Tôma Tống viết Bường, giáo dân +1833.

Thánh Bường quê Huế, Phủ Cam,
Là quan Thị Vệ, phẩm hàm cao sang.
Trung thành với Chúa hiên ngang,
lệnh truyền Minh Mạng xuống hàng lính vua
Trảm hình mười tám ba ba,
Hai Ba lễ kính hùng ca tháng Mười.

60. Thánh Giuse Lê đăng Thị, Giáo dân 1825-1860

Thánh Cai đội Thị gian nan,
Quê hương Quảng Trị, Nghệ An thanh bần.
Từ quan vì đạo an thân,
kẻ còn tố giác, ác nhân hại người.
Giảo hình mười tám sáu mươi,
Hăm tư lễ kính tháng mười hàng năm.

61. Thánh Gioan ĐẠT, Lm. 1765-1798

Cha Gioan Đạt mồ côi,
Quê hương Thanh Hóa, trau giồi trí tâm.
Niềm vui tử đạo âm thầm,
Anh hùng đầu rớt, giọng trầm lời kinh.
Mười bẩy chín tám trảm hình,
Tháng Mười hai tám hậu sinh kính mừng.

62. Thánh Hierônimô LIÊM ( Hermosilla), Giám mục 1800-1861
Thánh Giuse NGUYỄN DUY KHANG, thầy giảng 1832-1861
Thánh Valentinô VINH ( Berrio Ochoa), Giám mục 1827-1861
Thánh Phero BÌNH ( Almatô), Lm. 1830-1861

Liêm, Vinh, Giám mục, cha Bình,
Tây ban nha tới hy sinh vô cùng.
Thày Khang. Nam Định tháp tùng,
Trốn chui trốn nhủi, chém chung pháp trường
Mườ tám sáu mốt Hải Dương,
Ngày đầu Mười Một bốn phương kính mừng.

63. Thánh Phero Phanxicô BẮC ( Néron), Lm. 1818-1860

Cha Phêrô Bắc can trường,
Quê hương nưóoc Pháp lên đường truyền rao.
Bề Trên Vĩnh Trị gian lao,
Tù không hé miệng, chay hao cả người.
Trảm hình mười tám sáu mươi,
Mồng Ba mười Một hoa tươi bàn thờ.

64. Thánh Đaminh MẦU, Lm. ( +1858)

Thánh Mầu, Linh mục Đaminh,
Tôn sùng Đức Mẹ bên mình tràng châu.
Hưng Yên trảm quyết bay đầu,
chắp tay qùy gối lời cầu hân hoan.
Mười tám năm tám khải hoàn,
Mồng Năm Mười Một nhặt khoan tơ lòng.

65. Thánh Hyacintha GIA ( Casteneda), Lm 1743-1773
Thánh VinhSơn LIEM, Lm. 1732-1773

Thánh Gia truyền giáo Thái Bình,
Tây ban Nha tới hy sinh miệt mài.
Thánh Liêm quê ở Phú Nhai,
Trung Linh Cha giáo hiền tài thiết tha.
Trảm hình mười bẩy bẩy ba,
Mồng Bẩy Mười Một đồng ca khải hoàn.

66. Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI, Lm. 1771-1840
Thánh Phaolô NGUYỄN NGÂN, Lm. 1771-1840
Thánh Martino THỌ, Gd 1787-1840
Thánh Martino TẠ ĐỨC THỊNH, Gd 1760-1840
Thánh Gioan Baotixita CỎN, GD 1805-1840

Cha Nghi, Cha Thịnh , cha Ngân,
Thịnh Nghi hànội, Ngân gần xứ Thanh.
Cửa nhà Thọ, Cỏn nhân lành,
Lý trùm Nam Định đêm thanh chứa người.
Trảm hình mười tám bốn mươi,
Mồng tám Mưòi Một muôn đời sử xanh.

67. Thánh Stephano Theodoro THỂ, ( Cuénot) , Gm. 1802-1861

Đúuc Cha Thể phận nhà nghèo,
Pháp sang phụ tá gương treo Nam phần.
Lo tìm linh mục từ dân,
Lập thêm giáo phận rộng dần giáo khu.
Mười tám sáu mốt rũ tù,
Mười bốn mười Một thiên thu nhớ Ngài.

68. Thánh Phanxicô CẦN, Thầy giảng 1803-1837

Thày Cần, Hà Nội, Sơn Miêng,
Là Ông Thánh sống thiêng liêng tốt lành.
Tình nghi Linh mục tinh anh,
Giam còn lường gạt thánh danh Thập hình.
Mười tám ba bẩy giảo hình,
Hai mươi mười một lời kinh trầm hùng.

69. Thánh Vinhsơn Nguyễn thế Điểm, Lm. ( 1761-1838)
Thánh Phero Võ đăng Khoa, Lm ( 1790-1838)


Hai Cha: Chánh Điểm, phó Khoa,
Cha quê Quảng Trị, cha nah2 Nghệ An.
Cuộc đời hoạt động gian nan,
Giam chung Đồng Hới cơ hàn lặng thinh.
Mười tám ba tám giảo hình,
Hai ( hăm) Tư mười một tâm tình nở hoa.

70. Thánh Phero Cao ( Dumouliy Borie), Gm ( 1808-1838)

Thánh cao từ Pháp sang Nam,
Coi vùng hà Tĩnh , Nghệ An Bắc phần.
Hoà đồng phong tục ngưòi dân,
Thụ phong Giám mục bắc phần phía đông.
Mười tám ba tám máu hồng,
Hai ( hăm) tư mười một hương xông trên tòa.

71. Thánh Toma Đinh viết Dụ, Lm. ( 1783-1839)
Thánh Đaminh Ngyuễn Xuyên, Lm ( 1786-1839)


Cha Xuyên, Cha Dụ Đaminh,
Cùng quê Nam Định, Thánh Linh tuôn trào.
Nhịn cho kẻ đói gian lao,
nhục hình chẳng hé lời nào khai ra.
Mười tám ba chín hoan ca,
Hai ( hăm) sáu mười một thiết tha dâng lời.

72. Thánh Anrê Trần văn Trông, Gd ( +1835)

Thánh Trông ở Huế , Kim Long,
Lính chuyên dệt lụa ở trong triều đình.
Dù cho gian khổ ngục hình,
Không qua Thánh gía ân tình ngàn năm.
Trảm hình mười tám ba lăm,
Hai ( hăm) tám mười một muôn năm gương lành.

73. Thánh Giuse Du ( Marchaud), Lm ( 1803-1835)

Cha Du quê Pháp an vui,
Sang coi Bình Thuận trốn chui ẩn mình.
Quang Khôi theo dụ dấy binh,
đầu treo, xác chặt triều đình hờn căm.
Triều thiên mười tám ba lăm,
Ba mươi mười một muôn năm hát mừng.

74. Thánh Simon Phan đắc Hòa, Gd ( +1840)

Trùm Hoà, y sĩ Thừa Thiên,
Lương dân trở lại, nhân hiền bao dung.
Xôn xao sợ vạ cả vùng,
Trong nhà giáo sĩ tạm dung chờ thời.
Trảm hình mười tám bốn mươi,
Mười hai tháng chạp muôn ngưòi tung hô.

75. Thánh Phaolô Nguyễn văn Mỹ, Thầy giảng ( 1798-1838)
Thánh Phero Trương văn Đường, Thầy giảng ( 1808-1838)
Thánh Phero Vũ văn Truật, Thaày giảng ( 1816-1838)

Thánh Đường, Mỹ Truật sắt son,
Đường hà nam, Mỹ , Kẻ Non quê nhà.
Cùng al2 thầy giảng giúp cha,
Tại làng bầu Nọ, cả ba cùng tù.
Mười tám ba tám âm u,
Mười tám tháng chạp thiên thu huy hoàng.

76. Thánh Phanxicô Xavie Hà Trọng Mầu, Thầy giảng ( 1790-1839.
Thánh Đaminh Bùi văn Uy ( 25 tuổi)
Thánh Toma Ngyuễn văn Đệ . Gd( 1810-1839)
Thánh Augustino Nguyễn văn Mới ( 21 tuổi)
Thánh Stephano Nguyễn văn Vinh ( 25 tuổi)

Thày Uy, Thày mậu giảng viên,
Toma Đệ thợ may hiền trắng trong.
Nông dân Vinh Mới tân tòng,
Rửa thêm mười bốn ngay trong nhà tù.
Mười tám ba chin ngàn thu,
Mười chín tháng chạp khiêm nhu kính chào.

77. Thánh Phero Trương văn Thi, Lm. 1763-1839
Thánh Anrê Dũng Lạc, Lm. +1839

Cha Thi, Dũng Lạc vui tươi,
Thánh người Hà Nội, thánh người Hà Nam.
Lúc đi xưng tội bắt giam,
Cha gìa cha trẻ cùng cam phận trời.
Mười tám ba chín đầu rơi,
Hai (h ăm) Mốt tháng Chạp ngàn đời vang danh.

Lm. Giuse Vũ xuân Huyên